22 Năm — Một Ngày Giỗ

18/03/2010

(Như Quảng – Thính giả RadioCTM)

Ngày 14 tháng 3 năm 1988, cuộc xung đột trên biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam được biết đến với cái tên Hải chiến Trường Sa.

64 chiến sĩ Việt Nam đã ngã xuống vì bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.

22 năm đã qua đi, không có thêm một cuộc hải chiến nào xảy ra nữa, nhưng mối quan hệ trên biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn hết sức căng thẳng.

Nhà nước Việt Nam với phương châm “16 chữ vàng” làm kim chỉ nam cho mọi quan hệ với đàn anh phương bắc, đã đẩy đưa cả dân tộc Việt Nam đứng trước nguy cơ bị mất đất, mất đảo, mất chủ quyền lãnh thổ. Phương châm đó cũng sản sinh những nỗi đau đớn cùng cực của những ngư dân Việt Nam hiền lành, nhưng lại luôn bị truy đuổi, bị bắn, bị cướp, bị đánh, bị sỉ nhục ngay trên hải phận của nước mình. Phương châm đó còn đẩy cả dân tộc vào hoàn cảnh con đường ra biển bị bịt kín; tài nguyên trên núi rừng và dưới lòng biển dần dần bị dâng hiến.

Tháng 12 năm 2007,  khi Trung Quốc chính thức hợp thức hoá “sự dâng hiến” vừa nêu qua sự kiện thành lập huyện Tam Sa. Các cuộc biểu tình vì Hoàng Sa – Trường Sa thân yêu tại Sài Gòn và Hà Nội của giới thanh niên, trí thức, văn nghệ sĩ đã khiến nhà nước CSVN phải đối mặt với những chất vấn về tính “toàn vẹn lãnh thổ” và đối tượng phục vụ của họ.

Những tưởng với tinh thần của nòi giống Lạc Hồng, thì người dân Việt Nam có thể ngẩng cao đầu hô vang “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam” một cách đầy hãnh diện và tự hào trên chính quê hương.  Nhưng thái độ ươn hèn của nhà cầm quyền Hà Nội đối với Bắc Kinh, đã khiến những người lãnh đạo nhà nước này xuống tay đàn áp đồng bào mình. Nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị câu lưu, bị dò xét và đàn áp, nhiều em học sinh, sinh viên bị buộc phải thôi học vì đã tham gia biểu tình… Nhiều người trong số họ đã phải đau đớn thốt lên câu hỏi: “Liệu ta đang ở đâu trên chính quê hương mình?”

Tháng 7 năm 2009, việc nhà nước đồng ý để Trung Quốc vào khai thác quặng bauxite tại Tây Nguyên làm dấy lên làn sóng phản đối từ phía các nhà quân sự và trí thức. Những người trẻ Việt Nam lại tiếp tục thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết trong lòng dân tộc bằng phong trào mặc áo xanh kêu gọi “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam” – “Giữ lấy màu xanh và an ninh cho Việt Nam”. Một lần nữa, những người yêu nước lại bị truy bức . Nhiều người trong số đó bị câu lưu, thậm chí bị giam giữ.

Ngày 14 tháng 3 năm 2010, kỷ niệm 22 năm ngày Hải chiến Trường Sa, một lần nữa, bất chấp sự đàn áp của nhà cầm quyền Hà Nội đối với những con người đang trăn trở vì tương lai và chủ quyền của đất nước, những thanh niên Việt Nam – thế hệ tương lai của đất nước, đã xuất hiện cùng với chiếc mũ và áo xanh, mang theo thông điệp “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”.

Đây quả thật là hành động vinh danh những người đã ngã xuống vì Trường Sa một cách thiết thực và cảm động nhất, chứ không bằng những lời “ghi công” nhạt nhẽo của nhà cầm quyền Việt Nam. Quan trọng hơn nữa, đây là việc làm thu hút sự quan tâm của nhiều người trẻ đang sống tại Việt Nam. Nhiều bạn trong số này lần đầu tiên được biết sự thật về chủ quyền của Tổ quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.

Những người yêu nước chân chính đã không hề sợ hãi và sẽ không khuất phục trước bạo quyền, dù rằng trong suốt nhiều năm cầm quyền, những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam liên tục gia tăng đàn áp, bắt bớ những người Việt Nam yêu nước. Sẽ không một bạo lực nào quật ngã được ý chí đấu tranh kiên cường của những người yêu nước này, khi mà họ dõng dạc cất lên tiếng nói đấu tranh, sẵn sàng chấp nhận vào nhà tù nhỏ. Ngay trong nhà tù nhỏ họ vẫn tiếp tục lan truyền tinh thần đấu tranh cho những người cùng cảnh ngộ. Và khi trở ra nhà tù lớn cùng dân tộc thì niềm tin vào lý tưởng đấu tranh của họ càng kiên định hơn, đồng thời niềm tin đó càng được nhân rộng trong quần chúng. Thực tế này đã khẳng định điều tất yếu là: Lãnh đạo cộng sản Việt nam sẽ thất bại. Họ thất bại vì chính thái độ ươn hèn với quân thù nhưng lại rất tàn ác với đồng bào của họ.

Việc các bạn trẻ tuyên nhận chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa – Trường Sa ngay giữa lòng Hà Nội qua việc phân phối áo mũ mang tinh thần đó đến đồng bào, hôm 14 tháng 03 năm 2010, thực ra chỉ là việc làm bình thường của bất cứ người dân nào dưới một chế độ bình thường — nghĩa là một chế độ biết  trân trọng và xiển dương tinh thần yêu nước của người dân. Tuy nhiên, sự kiện này lại xảy ra dưới một chế độ “bất bình thường”, lòng yêu nước bị coi là phản động; người yêu nước bị xem là phần tử xấu. Chính vì vậy mà hành động phân phối mũ và áo “Hoàng Sa – Trường Sa – Việt Nam” trở thành hành động “phi thường” tương tự như  việc cầm biểu ngữ khẳng định chủ quyền đất nước trước nhà hát lớn Sài Gòn của Blogger Điếu cày và các bạn hữu của ông; hay như việc Mẹ Nấm và các bạn của chị mặc áo xanh kêu gọi “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam” – “Giữ lấy màu xanh và an ninh cho Việt Nam”; hay như việc lên tiếng bảo vệ môi sinh và chủ quyền đất nước của hàng ngàn trí thức Việt trên trang mạng bô xit VN. Vâng, đó là những việc bình thường nhưng cũng thật phi thường.

Sự kiện đền Ngọc Sơn ngày 14 tháng 3 đã khiến ngày này trở nên ý nghĩa hơn trong lòng những người dân Việt đang trăn trở với chủ quyền của đất nước chính là vì vậy.


TỌA ĐÀM VỀ BIỂN ĐÔNG VÀ HẢI ĐẢO VIỆT NAM TẠI SÀI GÒN

25/07/2009

Trần Hải Châu

Đặc Phái Viên Radio Chân Trời Mới
24/7/2009

Sau nhiều nỗ lực của ban tổ chức, chiều ngày 24 tháng 7 năm 2009 tại số 43 đường Nguyễn Thông, Quận 3, Sài Gòn buổi tọa đàm về chủ đề BIỂN ĐÔNG VÀ HẢI ĐẢO VIỆT NAM đã chính thức khai mạc. Dự kiến ban đầu, tổ chức tại Tòa Tổng Giám mục số 182 Nguyễn đình Chiểu – Quận 3, đã không thành và phải chuyển về một phòng nhỏ thuộc giáo xứ Mai Khôi.

image001

Trong diễn văn khai mạc Linh mục P. Nguyễn Thái Hợp, đại diện cho ban tổ chức bao gồm Câu Lạc Bộ Phao Lô Nguyễn văn Bình và Nhà Xuất Bản Tri Thức, nói lên quyết tâm tổ chức buổi tọa đàm dù gặp rất nhiều khó khăn. Ông cho hay vào tháng 3/2009 một cuộc Hội Thảo về chủ quyền ở Biển Đông được tổ chức tại Hà Nội. Nhưng buổi đó chỉ thu hẹp trong giới chuyên viên chứ không mở rộng cho nhiều thành phần xã hội dân sự. Và đó là lý do hình thức tọa đàm này rất cần thiết đối với một vấn đề của cả dân tộc.

Sau diễn văn khai mạc là Phiên I của cuộc tọa đàm do luật sư Nguyễn Ngọc Bích chủ trì. Trong Phiên I này có 3 tham luận được trình bày:

1.    Tham luận:  “Từ Trường Sơn Đông đến Song Tử Tây” của linh mục O.P. Thiện Cẩm. Ông kể về kỷ niệm 1 chuyến đi thăm Trường Sa và những cảm xúc của ông về nơi đón mặt trời đầu tiên của tổ quốc.

2.    Tham luận:  “Chủ quyền Biển Đông và Hải Đảo” của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc. Ông đề cập đến nhiều tài liệu và nghiên cứu hơn 20 000 bản đồ để chứng minh những tuyên bố của Trung Quốc là vô căn cứ. Ông đề cập đến nhiều phát hiện mới và vững chắc chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng sa và Trường Sa. Theo ông, giải quyết tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Malaysia là khuôn mẫu tuyệt vời để giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc, Đài Loan, Philippin. Phần trình bày của ông dài khoảng 30 phút và được khán phòng tán thưởng sôi nổi.

3.    Tham luận:  “Đường lưỡi bò trên Biển Đông và Luật quốc Tế” của Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên Đại Học Luật Thành phố trình bày. Ông trình chiếu các hình ảnh tàu hải quân Trung Quốc bắt bớ và ức hiếp các ngư dân Quảng Ngãi. Ông tuyên bố: “Những ‘tàu lạ’ mà báo chí hay dùng chính là tàu của Trung Quốc” giữa tiếng vỗ tay đồng ý của mọi người.

image002

Sau các tham luận là phần dành cho các câu hỏi từ những người tham dự. Chủ yếu các câu hỏi được đặt cho ông Đinh Kim Phúc và ông Hoàng Việt về các luật lệ quốc tế liên quan đến vấn đề tranh chấp hải phận. Trong phần này, bất ngờ tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã đăng đàn đóng góp cho phần trả lời, và cả hội trường nóng lên từ đó. Khi trả lời câu hỏi về công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/10/1958, vị tiến sĩ nghẹn ngào một hồi lâu rồi bật lên cảm xúc xót xa, ông nói: “Cần phải điều chỉnh ý thức hệ chiến tranh lạnh. Cả dân tộc ta là nạn nhân của chiến tranh lạnh”. Tiến sĩ Nguyễn Nhã cho biết, theo hiệp định Genève thì từ vĩ tuyến 17 trở vào là của Miền Nam, nên ông Phạm văn Đồng không có quyền gì mà công nhận nó là của ai và trao tặng nó cho ai. Ngay cả chính quyền Việt nam Cộng Hòa cũng không có quyền làm việc sai trái như vậy.

Sau phần giải lao là Phiên II của buổi tọa đàm. Phần này có 2 bài tham luận:

1.   Tham luận:  “Vai trò của Nhà Nguyễn với Biển Đông” của nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thắng. Ông là tác giả cuốn HOÀNG SA & TRƯỜNG SA. Trước khi trình bày bài tham luận ông thuật lại việc bị công an xách nhiễu mấy ngày nay. Ông đi đến buổi tọa đàm trễ vì bị an ninh làm khó dễ. Hôm kia thì họ khuyên ông không nên tham dự làm gì. Chiều hôm qua (23/7/2009) thì họ báo tin là buổi tọa đàm đã kết thúc và người ta đang tổ chức ăn mừng. Ông gọi điện kiểm tra thì quả đúng là “tin vịt”.

Ông cũng cho biết:  “Cuốn sách HOÀNG SA & TRƯỜNG SA bị làm khó dễ nhưng cuối cùng cũng tai qua nạn khỏi và đã phát hành”.  Có nhà báo đe dọa ông coi chừng bị tình báo Trung Quốc “khử” nhưng ông mặc kệ. Và nhà báo này cho hay là tình báo Trung Quốc hoạt động ở Việt nam nhiều vô kể. Tham luận của ông chính là bản tóm tắt cuốn sách đó.

Ông cho biết Bộ Ngoại Giao đã liên lạc với ông và chịu trả chi phí để ông dịch cuốn này sang Anh Ngữ để phát hành ở “Hải Ngoại”.

Ông bức xúc khi chính “Ông chủ tịch huyện Đảo Hoàng Sa” ở Thành phố Đà Nẵng, quê hương của ông, gọi vào hỏi thăm “chứ  ông viết cái gì ở trong đó?”. Câu hỏi ngớ ngẩn ấy làm cả khán phòng bật cười.

Người tham dự vỗ tay hăng hái nhất khi ông so sánh giữa việc Trung Quốc chi rất nhiều tiền cho các nhà nghiên cứu của họ đi tìm chứng cứ về “Tây Sa và Nam Sa” và sự thờ ơ của nhà cầm quyền Việt Nam về chủ quyền của ta trên “Hoàng Sa và Trường Sa”.

Do ông trình bày khá “đụng chạm” nên linh mục Nguyễn Thái Hợp có ý nhắc nhở. Ông đành dứt lời để nhường cho diễn giả kế tiếp.

image003

2.    Tham luận: “Quan Điểm của Việt Nam về Trường Sa và Hoàng Sa” của tiến sĩ Nguyễn Nhã. Ông công bố việc dân binh Quảng Ngãi giúp triều đình nhà Nguyễn trồng cây xanh trên các đảo và nhiều chứng cứ khác về chủ quyền của Việt Nam. Trong phần này, ông Nguyễn Nhã bớt xúc động hơn phần ông trả lời ban đầu nhưng vẫn rất quyết liệt. Ông phản bác các tuyên bố của phía Trung Quốc rằng Hoàng sa và Trường Sa vô chủ cho đến năm 1909. Và vào năm đó Trung Quốc là nước đầu tiên khám phá ra Hoàng Sa và Trường Sa. Ông thách thức các học giả, các luận án tiến sĩ chứng minh Trường Sa và Hoàng Sa vô chủ đến năm 1909. Ông dẫn chứng thí dụ 1 tiến sĩ uy tín của Đài Loan đã rất ngạc nhiên khi thấy những chứng cứ lịch sử của Việt Nam do ông cung cấp.

Khoảng 200 diễn giả và người tham dự say sưa theo dõi các trao đổi bất kể sự trà trộn của hơn 10 nhân viên công an mà chúng tôi nhận mặt được qua các động thái của họ. Chúng tôi cũng thấy có 2 sinh viên mặc áo thun trắng in hình bản đồ Việt Nam với hàng chữ Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài ra, tiến sĩ Chu Hảo và Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng đã không đến được buổi tọa đàm hôm nay như đã dự trù trong chương trình.

image004

Phiên III của buổi tọa đàm sẽ bắt đầu vào sáng ngày mai, lúc 8 giờ ngày 25 tháng 7 năm 2009, do chính linh mục Nguyễn Thái Hợp chủ trì. Theo chương trình sẽ có 3 bài tham luận — nhà sử học Nguyễn Đình Đẩu với tham luận Sưu tập bản đồ về Biển Đông và hải đảo VN; tiến sĩ Phan Đăng Thanh với tham luận Luật pháp Quốc tế về Biển Đông và hải đảo; và nhà văn Nguyên Ngọc với tham luận Nỗi niềm Biển Đông.
Ban tổ chức cung cấp các số điện thoại 0918456754, 0903962431, 0903110140 để giải đáp thắc mắc và hướng dẫn cách đến địa điểm tọa đàm.

RadioChanTroiMoi.com