Tại sao Phạm Văn Đồng Xác Nhận Hoàng Sa & Trường Sa cho Trung Cộng?

08/10/2008

TẠI SAO ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA LẠI XÁC NHẬN CÁC HẢI ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CHO TRUNG CỘNG ?

Công dân cựu bộ đội “quân đội nhân dân Việt Nam” – Lê Nguyên Hồng

Một sự thật được ém nhẹm và là “ Bí Mật Của Đảng” xem ra không thể nào dấu kín được nữa, nếu ngày 14/09/2008 phía Trung Quốc họp báo công khai công hàm của ông Phạm Văn Đồng, nguyên Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc.

Sau 50 năm, một sự thật được tiết lộ một cách phủ phàng, mặc dù trước đây cũng đã có những thông tin nhưng chưa chính thức. Giờ đây chúng ta bàng hoàng, thảng thốt : Vì sao ? Vì sao ?

Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng nhau điểm qua một vài chứng cớ lịch sử về hai quần đảo này :

Ai trong chúng ta cũng biết rằng : Hoàng Sa và Trường Sa là mảnh đất thiêng liêng của nhân dân Việt Nam. Chủ quyền hai quần đảo này đã được chứng minh bằng những chứng cớ lịch sử của những cư dân qua các triều đại phong kiến cho đến nay. Họ ! Những chủ nhân đích thực đã quản lý và khai thác trên vùng biển đảo này hàng mấy trăm năm nay.

Không những các tài liệu đã được lưu giữ trong nước, mà còn có rất nhiều tài liệu do người nước ngoài viết lại, thể hiện chủ quyền của nước ta như :

1 Sách Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán, viết năm 1696.

2 Hoặc các tác giả người Âu Châu như : Lepoivric ( 1749), Taberd(1833), Gutzlaff ( 1849).

Còn theo sử sách trong nước, chúng ta cũng có đủ bằng chứng về chủ quyền của nước Đại Việt, gồm cả hai triều Trịnh- Nguyễn phân tranh ( đều phò vua Lê ) qua các sách : Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Hồng Đức Bản Đồ hay Thiên Hạ Bản Đồ, trong Toản Tập An Nam Lộ là tác phẩm của Đỗ Bá Cung soạn năm Chính Hòa thứ 7 ( 1686 ).

Trong sách của nhà bác học Lê Quí Đôn năm 1776 có tên Phủ Biên Tạp Lục, tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ có lời chú giải rằng : “ Giữa bãi cát vàng ( Hoàng Sa ) dài tới 400 dặm…” “ Nhà Nguyễn, mỗi năm vào cuối mùa đông đều đưa 18 chiến thuyền đến lấy hàng hóa, vật phẩm như là vàng bạc, tiền tệ và súng đạn …”

Bàn đồ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi rõ “ bãi cát vàng” nằm ở phía trước của các địa danh trên đất liền như : Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa ( Quảng Ngãi ).

Bộ chính sử Đại Nam Thực Lục do Quốc Sử Quán ấn hành của triều Nguyễn có ghi : Thủy quân đội Hoàng Sa ra đảo xem xét và đo đạc thủy trình( quyển 50 và 52 đời Gia Long)…Và chưng miếu lập bia, trồng cây làm mốc chủ quyền ( quyển 104,122,154,165 đời Minh Mạng). Và còn rất nhiều bằng chứng khác như trong ngành khảo cổ về các Bài Gỗ ( cột móc ) dài từ 4-5 thước, rộng 5 tấc (đơn vị đo) mà các Cai Đội Thủy Quân thời xưa có trách nhiệm đem ra dựng tại các đảo và có khắc chữ như : ngày…tháng…năm…và tên của người Cai Đội v.v…

Bằng chứng chắc chắn là còn rất nhiều, nhưng trong bài viết này, tôi chỉ xin liệt kê một số tài liệu mà mình biết để chứng minh : Hoàng sa và Trường Sa là của đất nước Việt Nam !!!

Trở lại vấn đề của ông Phạm Văn Đồng, tôi có mấy ý kiến và chất vấn như sau : Ông Đồng là người ở trên cương vị Thủ Tướng chính phủ VNDCCH ở miền bắc VN có thời gian tại nhiệm lâu nhất từ trước đến nay ( có lẽ cả sau này nữa) trên cả đất nước Việt Nam được tái thống nhất. Ông được đảng Cộng sản VN và nhà nước Việt Nam đương thời tôn sùng nào là nhà văn, nhà văn hóa tư tưởng, nhà quân sự có tài…vv… và vv…có lẽ về thứ bậc thì chỉ sau Hồ Chí Minh mà thôi. Vậy ông phải đọc, phải học nhiều sử sách và ông quá biết những tài liệu lịch sử như trên chúng tôi đã đưa dẫn và chắc chắn là ông còn biết nhiều hơn, nếu không thì ông làm sao mà lãnh đạo được chính phủ của một quốc gia ? Vậy thì, tại sao ông Phạm Văn Đồng lại đi công nhận mảnh đất, biển trời thiêng liêng của Cha Ông chúng ta để lại, là của Trung Quốc ?

Trước khi ông ký vào Công hàm ngày 14/9/1958 tức cái biên bản ( phải gọi là biên bản mới đúng) để “ nhượng quyền sở hữu đất” nghiêm trọng tày trời như vậy, liệu có sức ép nào từ trung ương đảng Lao Động Việt Nam thời đó hay không ? Hoặc là có điều kiện gì đặc biệt từ phía chính phủ Trung Quốc đến với ông hay không ?

Trước khi ông ký vào công hàm mang tính “ Hiệp Ước” đó, ông có được họp bàn cùng Trung ương đảng lao động Việt Nam cùng ông Hồ Chí Minh về việc này hay không ? Nếu có thì các văn bản đó hiện giờ ở đâu ? Hay đây là sáng kiến của riêng ông Phạm Văn Đồng ? Đến đây thì chúng ta mới hiểu ra rằng : tại sao ngày 19/01/1974, Trung cộng tấn công cướp đảo Hoàng Sa ( lúc đó quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang canh giữ) thì chính quyền Hà Nội hoàn toàn câm lặng.

Người ta thường nói : Tốt khoe ra, xấu xa đậy lại! Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện triệt để câu nói này. Nhưng họ nên biết, Cha Ông chúng ta còn có câu : cái kim bọc trong giẻ có ngày cũng lòi ra hay là cháy nhà ra mặt chuột, sớm hay muộn thì cái xấu cũng phải phơi bày và sự thật vẫn là sự thật. Viết đến đây thì tôi lại nghi ngờ rằng : liệu có ngày nào, chúng ta sẽ phát hiện ra thêm những văn bản nhượng đất, nhượng biển, nhượng núi, nhượng sông cho ngoại bang mà từ lâu nay vẫn là Bí Mật Của Đảng CSVN nữa hay không ? Như vậy là đã rõ ! Sau 63 năm kể từ ngày 02/09/1945, chúng ta phải nhìn nhận một cách khách quan sự kiện này, nhìn nhận thật minh bạch : Ai là người làm nên lịch sử ? Đó chính là nhân dân Việt nam, chứ không phải là do đảng cộng sản hay một vài cá nhân được suy tôn theo kiểu, Hồ Chí Minh ca ngợi Hồ Chủ Tịch, các nhà báo Trần Dân Tiên, T. Lan ca ngợi Bác Hồ, anh Ba ca ngợi anh Lê Duẩn, anh Đặng Xuân Khu ca ngợi anh Trường Chinh và anh Tô ca ngợi anh Phạm Văn Đồng….vv….

Như vậy cũng lại rõ, suốt 50 năm qua chúng ta đã bị lừa dối về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta đã bị lừa dối về Bản Hiến Pháp năm 1959, cũng như về Bản Hiến Pháp 1992 và về “ Tuyên Ngôn Độc Lập” trước đó. Còn biết bao nhiêu hứa hẹn chót lưỡi đầu môi khác, hay về các quyền căn bản của con người như: quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và rồi đến quyền tự do tín ngưỡng, tự do lập hội, tự do cư trú…Tự Do ! Tự Do và Tự Do !!!!…. Nhưng trên thực tế tại Việt Nam từ khi hình thành chế độ chính trị do ĐCSVN nắm quyền sinh sát cả dân tộc này kể từ ngày 2/9/1945 ở ngoài Bắc và sau này trên nốt phần lãnh thổ nửa nước trong miền Nam kể từ ngày 30/4/1975 là không có tự do nào hết !!!

Như vậy lại rõ ! Sau 33 năm chúng ta thấy được rằng, cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam-Bắc là hoàn toàn vô nghĩa, vô lý đã đẩy lùi lịch sử và gây bao đau thương tan tóc cho đồng bào cả nước. Và, cuối cùng chỉ phục vụ lợi ích cho một nhóm đảng viên cộng sản cao cấp ở chóp bu có chức quyền, chứ nhân dân thì chẳng được gì, có chăng là những chiếc bánh vẽ hay là những tàu bay giấy mà thôi !

Vì vậy, thay cho lời kết, tôi xin nói lên rằng : Hãy cảnh giác ! Hãy làm theo những gì Đảng( CSVN ) đã nói và đừng làm theo những gì Đảng (CSVN ) đã làm !

Ngày 11/09/2008
Công dân Lê Nguyên Hồng
Thành viên Phong trào đấu tranh đòi dân chủ Việt Nam và của Khối 8406.


Phỏng Vấn ông Trần Anh Kim

22/09/2008

Hoàng Hà thực hiện
http://www.radiochantroimoi.com

Hoàng Hà: Kính thưa quí thính giả, kính mời quí thính giả theo dõi cuộc trao đổi của chúng tôi với ông Trần Anh Kim tại Thái Bình. Thưa anh Trần Anh Kim, anh có những suy nghĩ như thế nào về cuộc tranh chấp giữa Hoàng Sa và Trường Sa cũng như là cách nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc dưới thời ông Lê Khả Phiêu. Thưa anh, với tư cách là một người trong quân đội, anh nghĩ gì về vấn đề nhà cầm quyền CSVN hèn nhát không dám lên tiếng để phản đối nhà cầm quyền CS Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, thưa anh?

Trần Anh Kim: Thưa anh Hoàng Hà, và thưa tất cả quí vị thính giả nghe đài hôm nay, tôi là một sỹ quan đã từng chỉ huy chiến đấu đánh quân Trung Quốc xâm lược, và tôi vẫn nói rằng, nếu như không có tiểu đoàn của chúng tôi chặn đứng được những trung đoàn bộ binh của địch, thì nó sẽ thực hiện đúng được ý đồ chiến lược của nó là “Ăn cơm sáng ở Lạng Sơn và ăn cơm trưa ở Hà Nội” thì lúc bấy giờ, tôi nghĩ là nó tàn phá đất nước đến như thế nào. Và thực tế mà nói, trong thâm tâm của chúng tôi, là những người lính và những người sỹ quan thì chúng tôi vẫn cứ nói với nhau: thực ra mà nói, Mỹ xâm lược Việt Nam, nhưng không phải, chính Tầu mới là xâm lược mà chúng ta phải sống với Tầu một nghìn năm Bắc thuộc. Ta đau lắm chứ, nó giết phu, nó giết phụ, chúng ta đau lắm chứ. Ngày xưa các cụ còn để lại, lịch sử còn lại, cho nên chúng tôi rất căm, cho nên chúng tôi không thể chung sống với Tầu được, và coi Tầu là kẻ thù số một, chúng tôi hoàn toàn nhất trí.

Thế thì ngay thời gian chiến đấu tháng 2 năm 1979 ở trên biên giới Lạng Sơn, lúc bấy giờ có Nga giúp đỡ, thì chúng tôi có nói với nhau rằng ông Nga chỉ “miệng hùm, gan sứa” thôi. Tầu đánh như vậy, ổng chẳng ủng hộ được cái gì, vũ khí ổng ủng hộ thì toàn các loại sản xuất từ những năm 39, 42 thôi. Cho nên bắn không đúng gu, đúng liều, có khi nó sai, nó lại bắn vào chính ta đấy. Đấy là về vấn đề Tầu, nói về sự căm thù thằng Tầu thì chúng tôi đã có lòng căm thù thằng Tầu ngay từ đó rồi. Chứ còn sau vụ Trường Sa từ sau năm 1988 nó đánh Trường Sa thì tôi đã đi nói chuyện ở cả một huyện, như huyện Thanh Hà, tôi nói chuyện về Trường Sa. Thế nhưng mà lúc đó hạm đội Tầu nguyên tử của Nga nằm ở cảng Cam Ranh, thế nhưng mà khi Tầu nó đánh Trường Sa của ta, nó giết bao nhiêu là sỹ quan như vậy, thế mà cuối cùng là ông Nga không thay đổi gì cả.

Thế ngay lúc đó, tôi đã suy nghĩ rồi, tôi nói chuyện với các anh em, tôi nói là nếu như tôi là người được quan hệ, và được phát biểu cái chính kiến của mình thì tôi sẽ thân Mỹ, bởi vì khi Mỹ đứng ở Việt Nam thì tôi tin là Tầu không giám làm như vậy. Cho nên là tôi đã coi những người chiến sỹ, sỹ quan của quân đội VNCH giữ quần đảo Hoàng Sa đều là những anh hùng cả, đều là những anh hùng của dân tộc Việt Nam cả, bởi vì người ta còn anh hùng hơn cả Quân đội Nhân dân Việt Nam, người ta còn giữ được quần đảo Hoàng Sa, và lúc đó, tôi lại càng thấy cái ý nghĩa của việc để cho Tầu nó đánh Hoàng Sa, Trường Sa, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đau đớn. Thực tâm mà nói, là những sỹ quan không đuổi được quân Tầu ở ngoài Hoàng Sa, chúng tôi thấy nhục. Chúng tôi nhục lắm anh ạ. Cho nên chúng tôi nói lúc bấy giờ, kể cả anh em sỹ quan, chiến sỹ VNCH và kể cả Quân Đội Nhân Dân VN, chức năng của lực lượng vũ trang chúng ta là gì? Là chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chứ không bảo vệ đảng. Chúng tôi bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân chứ không bảo vệ đảng. Cái đó phải nói rõ như thế. Cho nên chúng tôi vẫn tôn vinh những anh, trong năm 1974, của quân đội VNCH giữ quần đảo Hoàng Sa. Chúng tôi vẫn tôn vinh các anh là những anh hùng và chúng tôi vẫn khâm phục các anh ấy. Chỉ có một lực lượng nhỏ như vậy mà phải chống một lực lượng lớn như vậy, mà trong khi đó, chính đảng CSVN lại đem bán nó cho Tầu. Đau lắm! Sau này chúng tôi mới biết, nó bưng bít lắm anh ạ, lúc đó không biết đâu!

Cho nên về quan điểm Hoàng Sa, Trường Sa thì bây giờ tôi hoàn toàn thống nhất với các sỹ quan trẻ bây giờ. Người ta nhận thức, người ta nói là cái đảng CSVN này, cái nhà nước VN này hèn nhát. Nhưng quân đội chúng tôi không hèn. Đấy, vừa rồi, sau khi bị cách chức toàn bộ Bộ Tư Lệnh Quân khu Thủ đô, thì tôi nghe một sỹ quan nói mà tôi sung sướng lằm. Tôi thấy anh em sỹ quan trẻ nhận thức rất là tốt, còn riêng bản thân tôi thì tôi nghĩ như thế này, thực ra mà nói, bản thân chúng tôi thì chúng tôi không bao giờ hèn nhát, chúng tôi không bao giờ chịu nhục trước kẻ thù Trung Quốc, thế mà cái đảng này nó chịu nhục, cái đảng này nó đem nó bán, rõ ràng là cái đảng này nó đem nó bán nước! Bán Hoàng Sa, bán Trường Sa cho Tầu, bán đến biên giới cho Tầu, bán biển cho Tầu, thế thì coi như là bán nước rồi!

Thì tôi đã nói rằng trong lịch sử dân tộc Việt Nam qua các triều đại, chưa có triều đại nào khốn nạn như triều đại Đảng CSVN, đem bán nước. Ngày xưa, ông cha ta, mặc dù có đánh Tầu, sau đó, vì nó là nước mạnh thì vẫn đem cống nó, cống nạp nó, nhưng không bao giờ nhường cho nó một tấc đất. Đấy là cái thái độ của ông cha ta rất rõ, đáng nhẽ ra, cái đảng CS này phải học ông cha ta từ trước, đừng để cho thằng Tầu nó chiếm một tấc đất, thì tại sao bây giờ để cho nó chiếm Hoàng Sa, chiếm Trường Sa như vậy.

Thế nhưng mà tôi thấy có một điều khốn nạn nữa là như vầy: Khi thằng Tầu nói chiếm quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của ta, nhân dân, những người yêu nước, nhất là lực lượng sinh viên xuống đường biểu tình thì đảng lại cho lực lượng đàn áp người ta, không cho người ta biểu tình chống quân Tầu. Người ta chống Tầu, có chống đảng đâu? Thế thì tại sao lại cấm? Thế thì rõ ràng đã lột trần bộ mặt của chế độ CSVN này, đã thân Tầu rồi. Cho nên bác Giang, bác viết là hãy cảnh giác với Lê Chiêu Thống, tôi nói là có khả năng Nông Đức Mạnh đã trở thành Lê Chiêu Thống rồi.

Cho nên bản thân tôi, tôi thưa với anh là tôi suốt đời ở quân ngũ, tôi 10 năm ở chiến trường miền Nam, nhưng ở chiến trường miền Nam, tôi tham gia chiến đấu thì ít, tôi vận tải thì nhiều, nhưng mà ra chiến trường ngoài Bắc đánh quân Trung Quốc là tôi tham gia đánh từ đầu cho tới cuối, đánh từ đầu cho tới phút chót. Mười hai năm tôi lăn lộn trên chiến trường, ở trên biên giới phía Bắc, cho nên tôi rất căm thù Tầu, và cho đến bây giờ tôi cũng rất căm thù Tầu và tôi nói rất rõ quan điểm của tôi với đảng CSVN là gì: Thằng Tầu phát triển được như ngày hôm nay là nhờ Việt Nam. Đáng lẽ nó phải cảm ơn Việt Nam, bởi vì Việt Nam ngu không để Mỹ ở đây, cho nên thằng Tầu nó mới lấn tới, và bây giờ nó mới phát triển như vậy. Đấy là cái suy nghĩ của tôi, cho nên tôi mới viết bài “Lối Ra”. Lối ra là gì? Tôi bảo là bây giờ, trong thời buổi hiện nay, cả thế giới người ta đi theo một chiều rồi, chỉ còn có 4 nước, trong đó có Việt Nam, là cứ đi theo riêng mình một hướng. Thà là hồi đó, chúng tôi nghe theo lực lượng chiêu hồi của VNCH, đi theo chế độ VNCH, thì bây giờ, chúng tôi sướng hơn nhiều, chúng tôi không bị khổ như thế này.

Đấy, nó như thế, cho nên là riêng về cá nhân tôi, tôi tin là tất cả những sỹ quan, tất cả những đồng đội của tôi rất căm thù thằng Tầu đã chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của chúng ta. Ở ngoài miệng thì nó nói 16 chữ vàng, nhưng thực tế, việc làm của nó là như vậy. Nó chiếm Hoàng Sa, nó chiếm hải đảo của ta, nó chiếm biên giới của ta, nó chiếm vùng trời, vùng biển của ta. Xong rồi nó lại làm cho dân tộc ta, nhất là lực lượng thanh niên bây giờ nghiện hút, rồi nhảy, rồi thuốc lắc,…tất cả đều là của Tầu nó đưa sang cả. Nó làm cho con người thanh niên của chúng ta bây giờ không còn tư cách nữa. Thưa với anh, trở thành thân tàn, ma dại hết thôi. Bây giờ cảnh của Việt Nam, tôi nói là nó suy đồi hơn chế độ phong kiến, thực dân ngày xưa cơ. Bây giờ nghiện hút rất là nhiều, rồi cái cảnh là ông bà cúng con, cha mẹ cúng con. Hỏi làm sao vậy? Bởi chúng nó nghiện, chúng nó chết cả anh ạ. Đấy, cái thôn tôi ngày xưa đến tám xóm mới nghe đến nghiện, còn bây giờ, cả xóm nghiện rồi. Đấy, tất cả đều do Tầu dồn sang, Tầu đưa sang thôi. Thế thì cái thằng Việt Nam này, thưa với anh, là nó ham tiền, cái thằng đội trưởng chống ma túy thì lại đi buôn ma túy.

Cho nên tôi đã nói là cái đảng CSVN đã đạt đến đỉnh cao của sự ngu xuẩn rồi. Bởi vì sao? Bởi vì cả thế giới, người ta vất cái chủ nghĩa Mác Lenin vô sọt rác rồi, thế mà bây giờ, nó vẫn trương cái chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưỡng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưỡng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Cho nên thưa với anh Hoàng Hà, thưa với tất cả quí vị nghe buổi hội đàm ngày hôm nay là bản thân tôi, tôi đứng ra đấu tranh thẳng với cái thể chế này, đấu tranh thẳng với cái đảng này. Và tôi từ bé cho đến bây giờ, tôi đặc sệt chính trị, tôi chỉ làm công tác chính trị thôi. Cho nên bây giờ, cái đảng CSVN, ông Nguyễn Minh Triết là một, ông Nguyễn Tấn Dũng là hai, sang Mỹ khẳng định rằng không có tù chính trị. Để tôi làm chính trị đi, coi nó có bắt tôi vào tù để tôi chứng minh với thế giới rằng đây, tù chính trị đây. Cho nên là tôi sẽ đấu tranh đến cùng về cái chuyện quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và tôi sẽ có lời kêu gọi đến tất cả các sinh viên, tất cả các sỹ quan trẻ, tất cả các lực lượng trong quân đội, chúng ta hãy kiên quyết đứng lên đấu tranh, đòi nhà cầm quyền Bắc Kinh hãy trả lại Hoàng Sa và Trường Sa cho dân tộc Việt Nam. Bởi vì dân tộc Việt Nam đã đổ quá nhiều máu trong khu vực ấy rồi. Cho nên phải trả lại, và có như thế thì 16 chữ vàng tôi mới chấp nhận. Còn nếu không làm như vậy, trả lại tất cả những đất ở biên giới, nó đã chiếm,….

Hoàng Hà: Thưa anh Anh Kim, lời kêu gọi của anh là lời kêu gọi tất cả quân đội đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng mà thưa anh, việc mà anh kêu gọi quân đội đứng lên chống Trung Quốc đó, thì tại sao chúng ta không đưa cho quân đội thấy rằng nhà cầm quyền CSVN đang hèn mạc đã dâng đất nước của mình cho người khác?

Trần Anh Kim: Thưa anh, nó như thế này ạ, bây giờ chúng tôi vẫn nói với nhau là “sống trong chăn mới biết chăn có rận”. Cái mánh khóe của đảng CSVN là người ta cài cắm từ đội thiếu niên trở lên, cho nên tất cả các lực lượng, trong đó đều có đảng cả. Ví dụ như bây giờ, trong quân đội biên chế, thì từ tiểu đội trở lên thì tiểu đội trường phải là đảng rồi. Thế thì anh bảo làm sao mà làm được? Tất cả của đảng cả, và bây giờ quân đội ta là phải trung với đảng cơ mà. Đáng lẽ quân đội ta là phải trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì nhân dân. Thế mà bây giờ lại nói quân đội ta trung với đảng, trung với đảng có nghĩa là trung với ba triệu người thôi. Thế cho nên nó cài cắm, cài cắm từ tiểu đội trưởng trở lên, cho đến bí thư quân ủy trung ương là Nông Đức Mạnh. Thế nhưng cái nguy hiểm nhất của nó là như thế này anh ạ, nguy hiểm nhất là từ vô sản, bây giờ chúng nó đã trở thành hữu sản, và chúng nó đã trở thành những tư sản đỏ, địa chủ đỏ, chúng nó rất giàu, cho nên chúng nó phải thân với Trung quốc để bảo vệ chính cái ngai vàng của nó. Và chính quân đội bây giờ cũng đã thoái hóa, biến chất rồi. Các sỹ quan vào đảng là mục tiêu của nó là để trấn áp anh em, trấn áp lính để làm giàu cho nó, cho nên nó cũng thoái hóa, biến chất cả rồi anh ạ. Cho nên tôi bảo là quân đội bây giờ cũng đã thoái hóa, biết chất cả. Nó là đảng cả mà.

Chỉ bao giờ quân đội không dưới sự lãnh đạo của đảng nữa. Quân đội phải độc lập, quân đội phải giữ đúng chức năng của nó là bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân thôi. Tôi rất mừng, cái mừng thứ nhất là sỹ quan trẻ đã nhận ra, cái mừng thứ hai là các cháu sinh viên đã nhận ra, cái đó là tôi rất mừng đã nhận ra điều đó. Cho nên quân đội chúng ta phải tách khỏi hẳn, quân đội chúng ta không thể bảo vệ đảng được. Quân đội chúng ta phải bảo vệ tổ quốc, thế thì bây giờ tổ quốc chúng ta đang mất mà quân đội chúng ta không làm thì tôi cho là quân đội chúng ta cũng hèn luôn! Quân đội Nhân Dân Việt Nam bây giờ hèn luôn.

Thế nhưng tôi đã nghe một câu rất sâu sắc là khi ông Phan Văn Khải sang Thái Lan, ông khoe với ông Thaksin là nước Việt Nam chúng tôi rất tự hào là đánh hết đế quốc này đến đế quốc khác. Ông Thaksin đã trả lời một câu rất ngắn ngọn là: “Thưa ông, đất nước chúng tôi không được vinh hạnh là đánh thắng những thứ đó!” Nếu giả sử như tôi là người sâu sắc, tôi nghĩ cái đó, nó nhục quá. Thế nhưng mà tôi tin rằng đến khi mà anh em sỹ quan trẻ và các lực lượng đã nhận ra thì lúc đó nó sẽ khác. Tôi tin rằng nó sẽ có cái bước ngoặc. Lúc này đang tích lũy về lượng và khi cái lượng nó đủ rồi, nó chuyển thành chất rồi, thì tôi tin là lúc đó, nó chuyển thành sức mạnh. Tôi có cái niềm tin như vậy anh ạ.

Thưa với tất cả quí vị nghe buổi hội luận hôm nay, tôi có một suy nghĩ như thế này: trước sau, cái lực lượng trẻ này, nó cũng sẽ phát huy truyền thống của ông cha ta. Trần Hưng Đạo, Quang Trung. Khi nó đã nhận đúng ra vấn đề rồi thì đảng CSVN có cản cũng không được nữa. Dứt khoát nó sẽ đứng đúng vào vị trí, đúng vào chức năng của nó là gì? Là lượng lượng vũ trang phải bảo vệ tổ quốc. Khi tổ quốc chúng ta mất, kiên quyết chúng ta phải chiến đấu để dành lại. Và chúng ta phải dành độc lập trọn vẹn, dân chủ thực sự, tự do thực sự, đúng nghĩa của nó.

Tôi thấy là ông Thiệu, ông ấy nói một câu rất hay là: “Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn những gì CS làm”, thì trách nhiệm của chúng tôi là những người đi trước, chúng tôi phải làm cho lực lượng trẻ nhận ra vấn đề đó. Và sau khi nhận ra vấn đề đó, thì từ chỗ người ta nhận thức rồi, người ta triển [khai] ra cái chất khác rồi, thì cũng như có lần tôi trả lời cho đài BBC đấy, bây giờ nó đang là sóng ngầm, nhưng khi nó trở thành sóng thần rồi, thì thưa với anh, là nó sẽ dập tắt. Tôi tin rằng cái đó sẽ có, vấn đề chỉ còn là thời gian thôi, thưa anh Hoàng Hà.

Hoàng Hà: Dạ vâng, xin cảm ơn anh Trần Anh Kim rất là nhiều, xin kính chào anh.


CSVN bắt giam 2 nhà dân chủ: Cô Phạm Thanh Nghiên và Nhà Giáo Vũ Hùng

18/09/2008

Như chúng tôi đã loan báo trong bản tin ngắn ngày hôm qua, vào khoảng 14 giờ 30 ngày 18/9/2008, CA đã xông vào nhà chị Phạm Thanh Nghiên đọc lệnh bắt khẩn cấp với tội danh là điều 88 Luật Hình Sự và đã còng tay chị dẫn đi.

Và mới đây theo bản tin của Nhóm phóng viên tự do Khối 8406, thì vài tiếng sau (khoảng 17 giờ) công an Hà Tây cũng đã đưa thầy giáo Vũ Hùng về nhà, khám xét nhà và đọc lệnh bắt khẩn cấp… Hiện ông cũng bị bắt theo điều 88 và giam giữ tại trại B14, Hà Nội.

Cũng xin nói thêm là trong 4 ngày qua chị Phạm Thanh Nghiên đã bị bắt vào đồn Công An hạch hỏi đến 3 lần, Công an lục xét, đập phá đồ đạc 2 lần. Tình trạng này khiến chị Nghiên mất sức trầm trọng đến nỗi bác sĩ phải tới nhà truyền nước biển, nhưng công an vẫn đến nhà ép buộc chị phải lên đồn cho họ xách nhiễu. Cách hành xử phi nhân này diễn ra trước sự chứng kiến của mẹ chị Nghiên và nhiều bà con lối xóm.

Được biết ngay trước khi bị bắt đi vào ngày 13/9, chị Phạm Thanh Nghiên đã viết một bức tâm thư phản đối bức công hàm bán nước của cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958, công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Trước tình trạng nhà cầm quyền CSVN tiếp tục gia tăng đàn áp các nhà dân chủ, khủng bố tinh thần sinh viên thanh niên, bịt miệng mọi hình thức biểu lộ lòng yêu nước và sự uất ức trước hành động xâm lấn của Bắc Kinh, chị Phạm Thanh Nghiên kêu gọi mọi người Việt Nam hãy bày tỏ thái độ bằng cách ngồi tọa kháng ngay trước cửa nhà mình cùng với hàng chữ lớn “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam”.

Lời kêu gọi tha thiết của chị Phạm Thanh Nghiên đang được đón nhận trong niềm quí mến, cảm phục của các nhà dân chủ, tập thể anh chị em thanh niên sinh viên, và mọi người Việt Nam thiết tha với giang sơn đất nước.

*****

Tâm Thư

Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, hàng hàng lớp lớp các thế hệ tiền nhân cống hiến cuộc đời, mạng sống của mình cho sự nghiệp cứu nước và dựng nước. Giải giang sơn gấm vóc mà chúng ta có được ngày hôm nay đã nhuộm thắm mồ hôi, xương máu của biết bao công dân Việt Nam đầy lòng ái quốc. Trong trách nhiệm của một con dân Việt Nam, trong sự biết ơn và trân quý những hy sinh xương máu của tổ tiên, tôi tự cho mình có bổn phận phải tiếp nối truyền thống bảo vệ và gìn giữ đất nước. Sự gìn giữ và bảo vệ không chỉ đơn thuần ở từng mét vuông lãnh thổ mà còn là danh dự và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Sự gìn giữ và bảo vệ này nằm trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, đứng trên mọi bất đồng về ý thức hệ, chính kiến, tổ chức và đảng phái.

Cách đây đúng 50 năm, vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, ông Phạm Văn Đồng đã đại diện đảng Cộng sản Việt Nam ký bản công hàm chấp nhận và tán thành bản Tuyên bố của đảng Cộng sản Trung Quốc về bề rộng lãnh hải của Trung Quốc trong đó bao gồm các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn tự nghìn đời thuộc vào lãnh thổ Việt Nam. Đây là một hành động cúi đầu bán nước của đảng cầm quyền CSVN đối với ngoại bang, chưa kể là ông cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thời điểm đó không có thẩm quyền ấy, vì 2 đảo Trường Sa và Hoàng Sa lúc ấy thuộc về quyền trách nhiệm sở hữu của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ và sẽ không bao giờ chấp nhận sự dâng hiến này của đảng CSVN. Hoàng Sa và Trường Sa muôn đời vẫn là lãnh thổ của Việt Nam.

50 năm trôi qua, mối nhục mất đất mất biển lại bị tiếp nối bởi nhiều sự dâng hiến khác, vì quyền lợi riêng tư, của thiểu số cầm quyền. Điển hình là Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung quốc vào ngày 30-12-1999 và Hiệp định phân định lãnh hải Việt Nam-Trung quốc ngày 25-12-2000. 789 cây số vuông dọc biên giới Trung Việt, trong đó có thác Bản Giốc và Ải Nam Quan cùng một phần lãnh hải của dân tộc, lại bị dâng hiến cho ngoại bang. Thêm một lần nữa, độc lập của Việt Nam lại bị xâm phạm, danh dự của dân tộc Việt Nam lại bị chà đạp. Trong khi đó, mọi tiếng nói, hành động bày tỏ quan điểm của công dân Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, mọi thái độ thể hiện lòng yêu nước và bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ cha ông của người dân đã bị thẳng tay đàn áp, bắt bớ hoặc giam cầm.

50 mươi năm trôi qua nhưng chúng ta không thể quên. Vì một phần thân thể của đất mẹ vẫn còn bị cắt đứt. Chúng ta không thể cúi đầu. Vì danh dự và tự hào dân tộc vẫn là một vết nhục chưa được xóa nhòa. Chúng ta không thể im lặng. Vì im lặng là đồng ý với hành động bán nước. Chúng ta không thể buông xuôi. Vì mọi sự thờ ơ và buông xuôi sẽ dẫn đến những hành động bán nước tiếp diễn trong tương lai. Chúng ta, không những phải nỗ lực lấy lại những gì đã mất, mà còn phải ngăn chận những gì sẽ mất trong tương lai. Một người, chúng ta sẽ không thành công. Một ngày, một tháng, một năm là quá ngắn để đạt được mục đích. Nhưng với nhiều công dân Việt Nam, bằng trách nhiệm, lương tâm và lòng yêu nước, bằng chiều dài cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ thành công trong việc tiếp nối sự nghiệp cứu nước và giữ nước của tiền nhân.

Trong sự ý thức về trách nhiệm của một công dân Việt Nam, trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, tôi quyết định sẽ tọa kháng ngay trước nhà của tôi khởi từ ngày 14 tháng 9 năm 2008 trở đi để phản đối hành động bán nước, dâng hiến Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc cách đây 50 năm. Lý do tôi phải chọn hình thức đấu tranh này là vì tôi đã từng nộp đơn xin phép nhà nước để được biểu tình, để được làm theo đúng pháp luật quy định của nhà nước, hầu không bị công an vô cớ đàn áp và vu khống như những lần tham dự biểu tình trước, nhưng đơn xin phép của tôi cũng đã bị bác bỏ, và bản thân tôi lại bị hành hung. Tôi khiếu tố và đơn khiếu tố ấy cũng bị tòa từ chối không giải quyết. Tôi không còn lựa chọn nào khác trừ phương thức đấu tranh tọa kháng ngay tại nhà tôi để thể hiện quyền bày tỏ thái độ của tôi, một quyền mà chính hiến pháp nhà nước trong điều khoản 69 cũng đã ghi rõ. Và lần này, nếu nhà nước đàn áp, sách nhiễu hay xử dụng bạo lực với tôi, hay thậm chí án tù với tôi, thì ít ra tôi cũng đã thể hiện qua chính sự an nguy của tôi cho cả thế giới được biết sự thật của đất nước này là không hề có tự do ngôn luận, cho dù là ngay tại chính nhà mình sở hữu.

Tôi cũng tọa kháng để phản đối mọi hành động khiếp nhược của nhà nước này trước ngoại bang phương bắc nhưng lại hung hãn đàn áp mọi tiếng nói, mọi thái độ bày tỏ lòng yêu nước của công dân Việt Nam. Đây chỉ là một việc làm nhỏ bé mà cá nhân tôi có thể làm được trong lúc này. Nhưng dù là một hành động nhỏ bé, nhưng với tinh thần đất nước là của chung, tôi xin kính khẩn kêu gọi mọi tầng lớp công dân Việt Nam, quý bác, quý chú đã từng hy sinh cuộc đời của mình cho nền độc lập của đất nước, các anh chị và các bạn trẻ đang mong ước đất nước Việt Nam sẽ ngẩng cao đầu với cộng đồng nhân loại, hãy cùng với tôi bày tỏ thái độ và lòng yêu nước của mình ngay tại chính nhà của quý vị, bất cứ ngày nào khởi từ ngày 14 tháng 9 này trở đi, nếu như quý vị cũng như chúng tôi bị ngăn cấm, không thể đến được nơi biểu tình ở Hà Nội vào 14/09 trước sứ quán Trung Quốc.

Mục đích duy nhất của hành động tọa kháng của tôi là bày tỏ lòng yêu nước và nhắc nhở cho chính tôi và đồng bào của tôi về mối nhục mất đất, mất biển và tôi mong mỏi được sự hỗ trợ và đồng thuận của nhiều người qua những hành động cụ thể. Nếu tôi bị bắt giam thì chắc chắn “tội” của tôi và đó là là tội duy nhất của tôi, là đã dám công khai bày tỏ lòng yêu nước của mình. Và nếu vì yêu nước mà bị giam cầm thì tôi rất sẵn sàng và hãnh diện đón nhận bản án tù ấy bất cứ lúc nào.  Và nếu như tôi bị bắt giam trước khi tôi có cơ hội toạ kháng tại nhà như ước muốn, thì tôi sẽ tọa kháng phản đối trong nhà tù. Đối với tôi những khó khăn này rất là nhỏ bé so với những hy sinh của các bậc tiền nhân, của các vị cha chú đi trước tôi đã trải qua trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Kính mong,

Ngày 13 tháng 09 năm 2008
Công dân Phạm Thanh Nghiên
17 Phương Lưu 2, Phường Đông Hải, Quận Hải An, Hải Phòng


Kiến nghị hủy bỏ công hàm Phạm Văn Đồng

16/09/2008

Cập nhật ngày 12/09/2008
Quí đồng bào muốn ký tên vào Kiến Nghị này, xin gởi tên họ và địa chỉ tại Việt Nam về hộp thư kiennghi1409@gmail.com

KIẾN NGHỊ HỦY BỎ CÔNG HÀM 14 THÁNG 9 NĂM 1958 CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG

Kính gửi:  Ông Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam
– Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
– Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
– Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Thưa các ông

Từ nhiều năm nay, Chính phủ ta đã khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhưng thực tế cho thấy phía chính quyền Trung Quốc đã không những không tôn trọng điều khẳng định của Chính phủ ta mà còn liên tục có những hành động xâm phạm chủ quyền của ta:

Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Tháng  5 năm 1988, Trung Quốc đã xâm chiếm nhiều đảo ở Trường Sa.

Tháng 11 năm 2007, Trung Quốc đã cho thiết lập huyện Tam Sa để trực tiếp quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lúc hai quần đảo này còn trong vòng tranh chấp giữa ta và chính quyền Trung Quốc.

Tháng 7 năm 2008, Trung Quốc đã cảnh báo và yêu cầu tập đoàn dầu khí Exxon Mobil của Hoa Kỳ rút khỏi hợp đồng khai thác mỏ dầu với chính phủ ta. Trước đó, vào tháng 6 năm 2007, nhà cầm quyền Trung Quốc cũng đã phản đối và yêu cầu ngưng hợp đồng giữa Chính phủ ta với tập đoàn dầu khí BP của Anh nhằm nghiên cứu dầu khí gần khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khiến cho tập đoàn BP đã phải tạm ngưng kế hoạch xúc tiến.

Mới đây, trong khi chuẩn bị Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008, nhà cầm quyền Trung Quốc đã vẽ lại bản đồ Trung Quốc trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta. Giữa tháng 8 năm 2008, hải quân Trung Quốc trang bị dàn hỏa tiễn tối tân xâm nhập vào khu vực lãnh hải của Việt Nam.

Những hành động nói trên cho thấy là nhà cầm quyền Trung Quốc coi thường công luận và tiếp tục xâm phạm hải đảo của Việt Nam, trong khi Chính phủ ta chỉ lên tiếng phản đối một cách quá dè dặt. Một trong những văn bản bị Trung Quốc lợi dụng để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa là Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 xác nhận rằng: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc”. ( Bản Tuyên bố của Trung Quốc khẳng định hải phận 12 hải lý của họ, trong đó bao gồm chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ). Sau này, chính phủ ta có giải thích về lý do ra đời của Công hàm vào năm 1958 là hoàn toàn mang tính ngoại giao không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc không đếm xỉa gì đến giải thích này.

Nhiều thế hệ Việt Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ giang sơn tổ quốc. Chúng ta trong thế hệ này không những tiếp tục bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải của cha ông để lại mà còn phải can đảm sửa sai những lầm lẫn của quá khứ để không tiếp tục trao gánh nặng lại cho thế hệ tương lai. Những sai lầm của ta xuất phát từ niềm tin trong sáng vào họ khi cùng họ đấu tranh cho một ý thức hệ mà ta tưởng là lý tưởng. Nay chính họ đã phản bội lại tất cả và ngày càng biểu lộ dã tâm xâm lăng đất nước ta, bởi vậy, ta không thể không có thái độ dứt khóat và hành động mạnh mẽ để đáp trả đích đáng dã tâm của đối phương.

Ngày 14 tháng 9 năm nay là vừa tròn nửa thế kỷ đã trôi qua đối với bản công hàm do cá nhân thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký mà không thông qua Quốc hội, không trưng cầu ý kiến toàn dân. Bởi vậy, nhân dịp này chúng tôi khẩn thiết đề nghị Nhà nước ta chính thức tuyên bố hủy bỏ Công hàm mà cá nhân thủ tường Phạm văn Đồng đã ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 gửi cá nhân thủ tướng Chu Ân Lai.

Chúng tôi hoàn toàn tin rằng đây là sở nguyện của toàn dân Việt Nam và làm được như vậy mới có thể chuộc lỗi cùng Tổ quốc và Nhân dân, từ đó sẽ cứu vãn được lòng tin.

Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 2008

Những người ký tên kiến nghị :
(Tính đến ngày 12/9/2008)

Quí đồng bào muốn ký tên vào Kiến Nghị này, xin gởi tên họ và địa chỉ tại VN đến hộp thư kiennghi1409@gmail.com

Cựu chiến binh ( theo thứ tự tên gọi)
1. Phan Anh – thương binh, giáo viên trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
2. Phạm Quế Dương – đại tá QĐND VN, 37 Lý Nam Đế, Hà Nội
3. Lê Điệp – CCB, 17 Hàng Quạt, Hà Nội
4. Lê hữu Điệp – CCB, 40, phường Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Ha Nội
5. Lý Anh Kim – CCB, 87, Phường Phúc Xá, Ba Đình, Ha Nội
6. Trần Anh Kim – Trung tá QĐNDVN, biên tập viên tập san Tổ Quốc
7. Nguyễn Trọng Lâm – CCB, 46 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
8. Nguyễn văn Miến – đại tá QĐNDVN, 30 đường Nguyễn Cao, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
9. Nguyễn Kim Nhàn – CCB, số nhà 1413, khu 34, thành phố Bắc Giang
10. Nguyễn Thanh Nhàn- thương binh chống Mỹ, gv trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
11. Phạm văn Phiếu – cụu quyết tử quân Trung đoàn Thủ đô, 8/28 Hương viên, Hai Bà Trưng, Hà Nội
12. Trịnh Khả Phức – Cựu chiến binh chống Pháp – số 6, nhà P9, khu lắp ghép Trương Định, Hanoi
13. Vũ Cao Quận – CCB, Hải Phòng, biên tập viên tập san Tổ Quốc
14. Lê Anh Sơn – CCB, 17 Nguyễn Du, Hà Nội
15. Đỗ Việt Sơn – lão thành cách mạng, 4/21. Nguyễn Cao, Hà Nội
16. Trần Đức Thạch – CCB, Hội viên Hội Văn Nghệ Nghệ An
17. Nguyễn Thế – CCB, Thanh Xuân, Hà Nội
18. Đỗ văn Thỉnh – CCB, Văn Phú, Phú La, Hà Đông
19. Chu văn Thưởng – CCB, 18 Ngõ Quỳnh, Bạch Mai, Hà Nội
20. Cao Bá Trữ – thiếu tá QĐNDVN, Đống Đa, Hà Nội

Nhân Dân Việt Nam (theo thứ tự tên gọi)
1. Tiêu Dao Bảo Cự – nhà văn, Thành phố Đà Lạt
2. Kim Văn Duy – sinh viên ĐH Kiến Trúc, tp HCM
3. Ninh Thị Định – 3/20/215 Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng.
4. Nguyễn Thanh Giang – tiến sỹ Địa Vật lý, số 6, tập thể Địa Vật lý Máu bay, Hà Nội
5. Lê Văn Giắt – Phòng 7b, số nhà 41, đường số 20, khu phố 4, phường hiệp bình chánh, quận thủ đức, Tp. HCM
6. Nguyễn Quốc Hải (Somsak Khunmi) – đảng viên Đảng Việt Tân, Ninh Hòa, Khánh Hòa
7. Vi Đức Hồi – Cựu hiệu trưởng Trường Đảng Hữu Lũng, Lạng Sơn khu An Thịnh, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
8. Vũ Hùng – cựu giáo viên vật lý trường PTCS Bích Hòa, Hà Tây
9. Vũ Mạnh Hùng – Cán bộ quản lý khu nội trú Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thương mại, Hà Nội
10. Trần Lâm – luật sư, Thành phố Hải Phòng
11. Mai Thái Lĩnh – cựu Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Đà Lạt, Lâm Đồng
12. Nguyễn Thượng Long – nhà giáo, Văn La, Văn Khê, Hà Đông
13. Nguyễn thị Lợi – ( thân mẫu cô Phạm Thanh Nghiên)
14. Nguyễn Văn Lượng –    33 Ngô Thế Lân, Tây Lộc, Huế
15. Hoàng Thái Mầu – 33 Ngô Thế Lân, Tây Lộc, Huế
16. Nguyễn Tiến Nam, tổ 24, phường Yến Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
17. Võ văn Nghệ – 277A, đường Nguyễn Trãi, phường Tây Sơn, tp Thanh Hóa
18. Nguyễn Xuân Nghĩa – nhà văn, số nhà 828, đường Trường Chinh, Kiến An, Hải Phòng
19. Phạm Thanh Nghiên, số nhà 17, Phương Lưu 2, phường Đông Hải, quận Hải An, Hải Phòng.
20. Hà Sỹ Phu – tiến sỹ sinh vật học, 4E Bùi thị Xuân, thành phố Đà Lạt
21. Lê Minh Phúc – Cựu Tổng giám đốc Liên hiệp Địa Vật lý Máy bay Việt Nam
22. Nguyễn Tấn Phúc (Việt Dân) – Long Xuyên, An Giang
23. Phạm Thị Phượng – Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng.
24. Lê Quang, giáo sư đại học, Thanh Xuân, Hà Nội
25. Nguyễn Hồng Quang – mục sư, C5/1H Trần Náo, Quận 2, Sài Gòn
26. Lê Quốc Quân, luật sư, Cầu Giấy, Hà Nội
27. Bùi Minh Quốc – nhà văn, 3 Nguyễn Thượng Hiền, Đà Lạt
28. Ngô Quỳnh – Hiệp Hòa, Bắc Giang
29. Phạm Hồng Sơn – bác sĩ, 72B Thụy Khuê, Hà Nội
30. Nguyễn văn Tính (tức Hoàng Hải Minh) Quán Chữ, Hải Phòng, mobile 0984 414479
31. Lưu thị Thu – 282, Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng
32. Trần Khải Thanh Thủy – nhà văn, biên tập viên tập san Tổ Quốc
33. Huỳnh Ngọc Tuấn – Tổ 16 , Phường Hòa Hương, TP Tam Kỳ – Tỉnh Quảng Nam
34. Vũ như Ý – nguyên chuyên viên cao cấp Bộ Giao thông vận tải, phường Vĩnh Tuy, Hà Nội
35. Phạm Thanh Yến, lô A1, Thái Phiên, Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng

… Và thư ủng hộ ngày 9 tháng 9 năm 2008 của 70 Mục Sư, Truyền Đạo, Sinh Viên Thần Học Tin Lành độc lập tại Việt Nam, đính kèm


70 mục sư, nhân sự, sinh viên Tin Lành ủng hộ kiến nghị hủy bỏ công hàm PVĐ

16/09/2008

“ Chớ dời ranh giới cũ, đoạt đất của kẻ mồ côi, Vì Đấng Cứu Chuộc họ là Thượng Đế năng quyền, Sẽ biện hộ cho họ và khép tội con” (Châm ngôn 23:11-12. Bản diễn ý. International Bible Society 1994 .)

Sài Gòn Ngày 09/09/2008

Hòa bình, công lý cho vấn đề Hoàng sa &Trường sa

Sáng và chiều tối ngày 08/09/2008 trên loa phát thanh phường Bình khánh, Quận 2, Sài Gòn khẩn thiết kêu gọi thanh niên tòng quân bảo vệ tổ quốc. Khác như mấy lần kêu gọi nhập ngũ trước, lần nầy như linh cảm đất nước phải đối diện với một cuộc chiến tranh để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Thêm vào đó là trên các trang mạng toàn cầu và đặc biệt là dư luận lan tỏa khắp Việt Nam về cuộc chiến tranh với Trung Quốc là rất có thể xảy ra nếu như Trung Quốc cứ khư khư xem Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của họ!

Hòa bình tốt hơn chiến tranh, Công lý tốt hơn tiến công vũ trang gây máu đổ thương đau cho người dân hai nước Trung – Việt.

Do đó chúng tôi là các Mục Sư, Truyền Đạo, Sinh Viên Thần Học Tin Lành độc lập tại Việt Nam cũng là công dân nước Việt nên rất quan tâm sâu xa về quyền lợi của dân tộc và hòa bình cho quê hương theo đúng luật Thượng Đế trong Thánh kinh, tôn trọng công lý đề cao đấu tranh pháp lý để có nền hòa bình xứng đáng cho nhân dân hai nước!

Bởi đó Chúng tôi minh định sự thật lịch sử được diễn tiến như sau:

1. Từ thế kỷ 15 đến nay Việt Nam đã có chứng cứ lịch sử và pháp lý chắc chắn về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

2. Chính quyền Việt Nam nhiều trăm năm qua các thời kỳ luôn thực hiện chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mang tính liên tục, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thông lệ lẫn công pháp Quốc Tế trong việc xác lập chủ quyền của mình trên hai quần đảo  nói trên.

3. Ngót 500 năm trước, vào thế kỷ 15, nhân dân Quảng Ngãi nói riêng và Việt Nam nói chung đã biết Vạn Lý Hoàng Sa hay Đại Trường Sa là lãnh thổ nằm trong địa lý hành chính của Việt Nam.

4. Mãi cho tới năm 1909 nhà cầm quyền Trung Hoa mới manh nha mang 170 lính thủy đến Hoàng Sa bằng hai pháo thuyền nhỏ lén lên vài đảo nhỏ của Hoàng Sa rồi vội vã rút lui sau một ngày đêm.

  • Hai mươi lăm năm sau, khoảng năm 1925 thì  tham vọng Trung Hoa trong tập “Trung Quốc Phân tỉnh tâm đồ” xuất bản ở Thượng Hải mới mơ màng về “Tây Sa” và “Nam Sa” quần đảo.
  • Cuối năm 1946 Trung Hoa Dân Quốc đưa tàu chiến đem quân đổ bộ lên Hoàng Sa và Trường Sa bị Pháp lên án vội rút đi, quân Pháp tái lập quân đồn trú tại Hoàng Sa.
  • Ngày 01/12/1946 Tổng Thống Tưởng Giới Thạch lần đầu tiên ký sắc lệnh mang tính pháp lý đặt tên Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thành Tây Sa và Nam Sa.
  • Ngày 13/01/1947 Pháp phản kháng Trung Hoa Dân Quốc âm mưu chiếm đóng bất hợp pháp một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa . Pháp cho tàu Le Tonkinois đổ bộ Trung đội hỗn hợp Việt – Pháp trấn giữ gồm 27 binh sĩ (10 binh sĩ Pháp và 17 binh sĩ Việt Nam)
  • Năm 1950 Trung Hoa Dân Quốc thất trận và rút luôn quân đồn trú bất hợp pháp ở một số đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về Đài Loan.
  • Ngày 15/08/1951 Ngoại trưởng Trung cộng là Chu Ân Lai mới yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa qua tuyên bố: “Tây Sa và Nam Sa lúc nào cũng là lãnh thổ của Trung Quốc”.
  • Năm 1956 lợi dụng quân Pháp rút, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa kịp thay thế quân Pháp nên Trung Quốc chiếm nhóm đảo phía đông Hoàng Sa, Đài Loan chiếm đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa.
  • Tối 20 rạng sáng 21/02/1959 Trung Quốc cho quân đội giả làm ngư dân đổ bộ lên đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa hòng chiếm nốt các đảo phía Tây Hoàng Sa nhưng bị các chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đồn trú tại Hoàng Sa kịp thời ứng phó bắt giữ 82 lính giả dạng ngư dân làm tù binh và cùng lúc bắt giữ 5 chiếc tàu dùng để xâm lấn Hoàng Sa.
  • Ngày 15/01/1974 Trung Quốc đổ quân cắm cờ trên nhóm đảo phía tây Hoàng Sa, tàu tuần tiểu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dùng loa và đèn hiệu yêu cầu lính Trung Quốc rút khỏi đảo nhưng họ làm lơ không chịu rút.
  • Ngày 16/01/1974 chính phủ Miền Nam Việt Nam ra tuyên bố phản đối Trung Quốc, và công bố chứng cứ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  • Ngày 17/01/1974 Trung Quốc huy động tàu chiến đến khiêu khích tàu của quân lực Việt Nam Cộng Hòa làm nhiệm vụ tuần tra đảo.
  • Ngày 18/01/1974 Trung Quốc  tuyên bố như tuyên chiến rằng: có quyền làm mọi hành vi cần thiết để “tự vệ”!
  • Hồi 8 giờ 30 phút ngày 19/01/1974 tàu chiến Trung Quốc bắt đầu nổ súng vào tàu HQ4 của Việt Nam Cộng Hòa làm 2 binh sĩ chết và 2 binh sĩ bị thương nhưng quân đội VNCH vẫn kiềm chế không nổ súng, trên biển chiến hạm Trung Quốc húc mũi vào tàu Hải quân VNCH và khiêu chiến, đến 10 giờ 25 phút, cuộc hải chiến ác liệt nổ ra QLVNCH chiến đấu chống lại quân Trung Quốc quyết liệt, bắn cháy 1 chiến hạm và bắn hư 3 chiến hạm khác của Trung Quốc. Quân Trung Quốc có máy bay ném bom hỗ trợ và hàng trăm lượt máy bay hoạt động liên tục đã áp đảo quân VNCH.
  • Ngày 20/01/1974 QLVNCH rút khỏi Hoàng sa trước sức tấn công với hỏa lực hùng hậu từ phía Trung Quốc.
  • Ngày 24/01/1974,  3 chiến hạm của hải quân QLVNCH mang theo thi hài 4 binh sĩ chết, 20 binh sĩ bị thương về tới cảng Đà Nẵng.Trung Quốc bắt 48 binh sĩ làm tù binh  (có 1 cố vấn Mỹ) và  có hơn 100 binh sĩ mất tích trong trận hải chiến oanh liệt nầy. Sau nầy tổng kết có khoảng 50 người tử trận.

Vậy Hoàng Sa mất vào tay Trung Quốc trong một cuộc chiến không cân sức bởi mưu kế của chính Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai giao cho phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình và Tướng Diệp kiếm Anh trực tiếp chỉ huy cuộc tiến công. Hai lần QLVNCH yêu cầu Hạm đội 7 của Hoa Kỳ tiếp cứu nhưng họ đều từ chối lạnh lùng, làm ngơ cho Trung Quốc đánh phủ đầu QLVNCH! (Theo tin của Hãng AP – Sài gòn ngày 21/01/1974.Báo Le soir 22/01/1974).

  • Ngày 30/07/1977 Ngoại trưởng Trung Quốc tuyên bố “ khi thời cơ đến chúng ta sẽ thu hồi toàn bộ quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) chứ không thương lượng gì hết”.
  • Tháng 2/1979 Trung Quốc mở cuộc tiến công quân sự đẫm máu 6 tỉnh phía Bắc nước ta gây thiệt hại nhân mạng và tài sản rất lớn cho nhân dân Việt Nam.
  • Ngày 30/01/1980 Bộ ngoại giao Trung Quốc ra văn kiện viện cớ rằng trước kia chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH ) “công nhận” Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc, họ có viện dẫn:
    +. Công hàm 14/09/1958 của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng.
    +. Tuyên bố ngày 09/05/ 1965 của chính phủ VNDCCH.
  • Năm 1981 hạm đội Bắc Hải của Trung Quốc thăm dò trinh sát vùng Vịnh Bắc Bộ.
  • Năm 1983 hai tàu chiến  trinh sát Trường sa và tàu đánh cá vũ trang hoạt động vùng biển nầy.
  • Tháng 6 /1984 Quốc Hội Trung Quốc phê chuẩn sát nhập Hoàng Sa & trường Sa trực thuộc Quảng Đông.
  • Ngày 05/09/1987 Trung Quốc thành lập Hải Nam là tỉnh thứ 30 của Trung Quốc.
  • Từ 16/05/1987 đến tháng 11/1987 Hải quân Trung Quốc liên tục tập trận vùng biển Trường Sa và chuyển thủy quân lục chiến đến Hoàng Sa.
  • Tháng 01/1988 Tàu khu trục mang tên lửa, cùng nhiều tàu chiến tập trung vùng Trường Sa và chiếm 6 đảo của Việt Nam tại Trường Sa.
  • Ngày 14/03/1988 Trung Quốc tấn công vũ trang vào hải quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ tại Trường Sa làm 2 tàu chìm 3 binh sĩ chết,74 binh sĩ bị bắt, một số mất tích, sau nầy tin có hơn 70 người bị chết.
  • Từ năm 1988  đến nay Trung Quốc tiếp tục xây dựng căn cứ, tồ chức các hạm đội, tàu ngầm, các đơn vị tác chiến trên biển, củng cố thế lực quân sự hùng mạnh vùng biển đông, uy hiếp trực tiếp nước ta và muốn tấn công quân đội Việt Nam đồn trú tại Trường Sa.
  • Năm 1990 Trung Quốc chiếm thêm 2 đảo của ta tại Trường sa. Nay họ đã chiếm tổng cộng 10 đảo.
  • Tháng 05/1992 Trung Quốc hợp tác với công ty Crestone của Hoa kỳ thăm dò dầu khí tại vùng biển ngoài khơi Trung  phần nước ta.
  • Tháng 08/1992 Trung Quốc cho 2 tàu với danh nghĩa nghiên cứu khoa học tiến sâu vào vịnh Bắc bộ nước ta, tàu Nam Hải tiến sâu vào vùng biển Hải phòng.
  • Thập niên 90 Trung Quốc ngang nhiên đưa nhiều tàu khoa học dò tìm dầu hỏa ngay trong vùng biển Việt Nam có lần vào sát cửa biển Thái bình có 37 hải lý!
  • Năm 1992 Trung Quốc ban hành đạo luật tuyên bố sẽ đánh chìm tàu nào qua lại vùng biển đông mà không xin phép ( máy bay Việt Nam cũng không được bay qua không phận Hoàng Sa ).
  • Năm 2001 vùng biển thuộc đia phận Quãng Bình bị “ngư dân “ Trung Quốc xâm phạm cả ngàn lần!
  • Năm 2002 có hơn 1000 vụ vi phạm từ phía Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của ta, Trung Quốc xem vùng vịnh Bắc bộ là ngư trường của họ.
  • Ngày 08/01/2005 ba tàu chiến Trung Quốc bắn chết 9 ngư dân Việt Nam và bắt giam một số ngư dân khác, cũng thời điểm 2005 Trung Quốc vẫn còn giam giữ 85 ngư dân của ta khi họ kiếm sống trên vùng biển quen thuộc của cha ông mình bao đời nay mà không hề có chuyện gì!
  • Ngày 18/08/2005 Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Trì Hạo Điền thuyết trình cho quân đội Trung Quốc về đề tài: Chiến tranh không xa chúng ta… dù phải hy sinh ½ dân số Trung Hoa!
  • Vào tháng 06/2006 Trung Quốc lại phổ biến bản đồ mới bộc lộ tham vọng bá quyền bất biến của họ khi vẽ ranh giới Trung Quốc sát bờ biển Quãng Ngải 70 hải lý, sát bờ biển Cam Ranh 45 hải lý chiếm phần thềm lục địa Việt Nam.Trong khi đó lãnh hải nước ta theo công ước quốc tế  về biển qui định là 200 hải lý.
  • Tháng 04/2007Trung Quốc vẫn bắn vào ngư dân Việt Nam trên biển.
  • Ngày 14/ 06/2007 Trung Quốc cản trở tập đoàn dầu khí BP. Anh Quốc đang thực hiện hợp đồng  khảo sát dầu khí với Việt Nam tại vùng Hoàng Sa và Trường Sa.
  • Ngày 09/07/2007 Hải quân Trung Quốc tiếp tục bắn chìm ngư thuyền của ngư dân Việt Nam trên biển làm 1 người chết và nhiều người bị thương
  • Tháng 11/2007 Trung Quốc chính thức thiết lập đơn vị hành chánh quản lý và khai thác Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta.
  • Tháng 07/2008 Trung Quốc cảnh báo, ngăn cản tập đoàn dầu khí Exxon Mobil của Hoa Kỳ ngưng hợp đồng khai thác dầu khí ở vùng biển nước ta.
  • Trước Thế Vận Hội Olympic Bắc Kinh 2008, Trung Quốc vẽ lại bản đồ và họ vẽ Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung quốc.
  • Giữa tháng 08/2008 mới đây, mặc dầu đang bận Thế Vận Hội nhưng Trung Quốc vẫn cho tàu trang bị vũ khí hiện đại xâm nhập vùng biển Trung phần nước ta.
  • Đồng thời trên các báo Trung Quốc họ còn hăm dọa “Quân đội Trung Quốc còn nợ vùng biển Tam Sa một cuộc chiến tranh!” và cũng trên các trang báo mạng Trung Quốc đều xuất hiện quan điểm hiếu chiến đòi tấn công quân sự Việt Nam!

Với những diễn tiến như vậy chứng minh rất rõ rằng nhà cầm quyền Trung Quốc hiện vẫn muốn dùng vũ lực chiếm cứ lâu dài hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa của nước ta, họ khai thác tài nguyên một cách bất hợp pháp, coi thường tình hữu nghị Việt –Trung, họ tiếp tục có những hoạt động quân sự uy hiếp nước ta. Vì lẽ đó chúng tôi có những tuyên bố sau:

1. Ủng hộ  thư kiến nghị ngày 02/09/2008 của những công dân Việt Nam yêu nước tại Hà Nội khẩn thiết đề nghị chính phủ Việt Nam chính thức tuyên bố hủy bỏ Công hàm 14/09/1958 và làm mọi cách để đính chính lại tính pháp lý cũng như hoàn cảnh lịch sử ra đời tuyên bố ngày 09/05/1965 của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, không để cho Trung Quốc viện dẫn để hợp pháp hóa việc xâm lược của họ.

2. Yêu cầu chính phủ Việt Nam nhanh chóng đệ đơn kiện Trung Quốc ra Tòa Án Quốc Tế, tranh thủ mọi diễn đàn quốc tế và Liên Hiệp Quốc để tuyên truyền sâu rộng về các chứng cứ lịch sử và pháp lý chắc chắn của Việt Nam về chủ quyền của mình trên hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Yêu cầu chính phủ Việt Nam tôn trọng hiến pháp, tôn trọng những cuộc biểu tình yêu nước của sinh viên học sinh và nhân dân lên án Trung Quốc xâm lược, nghiêm cấm bất kỳ ai cản trở, nên khích lệ toàn dân tham gia biểu tình lên án xâm lược và thu hút sự đoàn kết dân tộc trong và ngoài nước để một lòng cùng bảo vệ giang sơn.

4. Yêu cầu chính phủ Việt Nam thực thi điều 14 Hiến pháp 1992 của nước CHXHCNVN mạnh dạn hợp tác quân sự, chính trị, xã hội hơn nữa với các quốc gia tự do dân chủ văn minh như Khối Các Quốc Gia Thịnh Vượng Âu Châu, Khối Bắc Mỹ,  Khối Úc Châu – Asean, để dân chủ hóa đất nước, nâng cao sức mạnh dân tộc, bảo vệ hữu hiệu hòa bình và công lý đúng nghĩa cho quốc gia.

5. Yêu cầu chính phủ có điều kiện nên vận động mọi cách đến mọi tầng lớp nhân dân, quân đội Trung Quốc chống chiến tranh, mở trang Web cung cấp chứng cứ lịch sử, pháp lý cho toàn dân hai nước Việt -Trung biết để hai dân tộc cùng nhau bảo vệ hòa bình, tránh một cuộc đối đầu bằng chiến tranh thảm khốc!

Các Mục Sư, Nhân Sự và Sinh Viên Tin Lành Mennonite gồm 70 người có mặt

Đồng ký tên


Tâm thư của cô Phạm Thanh Nghiên

15/09/2008

Nghe âm thanh của cô Phạm Thanh NghiênTâm thư Phạm Thanh Nghiên

Tâm Thư Trước Giờ Bị CSVN Bắt Giam!!!!!

Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, hàng hàng lớp lớp các thế hệ tiền nhân cống hiến cuộc đời, mạng sống của mình cho sự nghiệp cứu nước và dựng nước. Giải giang sơn gấm vóc mà chúng ta có được ngày hôm nay đã nhuộm thắm mồ hôi, xương máu của biết bao công dân Việt Nam đầy lòng ái quốc. Trong trách nhiệm của một con dân Việt Nam, trong sự biết ơn và trân quý những hy sinh xương máu của tổ tiên, tôi tự cho mình có bổn phận phải tiếp nối truyền thống bảo vệ và gìn giữ đất nước. Sự gìn giữ và bảo vệ không chỉ đơn thuần ở từng mét vuông lãnh thổ mà còn là danh dự và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Sự gìn giữ và bảo vệ này nằm trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, đứng trên mọi bất đồng về ý thức hệ, chính kiến, tổ chức và đảng phái.

Cách đây đúng 50 năm, vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, ông Phạm Văn Đồng đã đại diện đảng Cộng sản Việt Nam ký bản công hàm chấp nhận và tán thành bản Tuyên bố của đảng Cộng sản Trung Quốc về bề rộng lãnh hải của Trung Quốc trong đó bao gồm các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn tự nghìn đời thuộc vào lãnh thổ Việt Nam. Đây là một hành động cúi đầu bán nước của đảng cầm quyền CSVN đối với ngoại bang, chưa kể là ông cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thời điểm đó không có thẩm quyền ấy vì 2 đảo Trường Sa và Hoàng Sa lúc ấy thuộc về quyền trách nhiệm sở hữu của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ và sẽ không bao giờ chấp nhận sự dâng hiến này của đảng CSVN. Hoàng Sa và Trường Sa muôn đời vẫn là lãnh thổ của Việt Nam.

50 năm trôi qua, mối nhục mất đất mất biển lại bị tiếp nối bởi nhiều sự dâng hiến khác, vì quyền lợi riêng tư, của thiểu số cầm quyền. Điển hình là Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung quốc vào ngày 30-12-1999 và Hiệp định phân định lãnh hải Việt Nam-Trung quốc ngày 25-12-2000. 789 cây số vuông dọc biên giới Trung Việt, trong đó có thác Bản Giốc và Ải Nam Quan cùng một phần lãnh hải của dân tộc lại bị dâng hiến cho ngoại bang. Thêm một lần nữa, độc lập của Việt Nam lại bị xâm phạm, danh dự của dân tộc Việt Nam lại bị chà đạp. Trong khi đó, mọi tiếng nói, hành động bày tỏ quan điểm của công dân Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, mọi thái độ thể hiện lòng yêu nước và bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ cha ông của người dân đã bị thẳng tay đàn áp, bắt bớ hoặc giam cầm.

50 mươi năm trôi qua nhưng chúng ta không thể quên. Vì một phần thân thể của đất mẹ vẫn còn bị cắt đứt. Chúng ta không thể cúi đầu. Vì danh dự và tự hào dân tộc vẫn là một vết nhục chưa được xóa nhòa. Chúng ta không thể im lặng. Vì im lặng là đồng ý với hành động bán nước. Chúng ta không thể buông xuôi. Vì mọi sự thờ ơ và buông xuôi sẽ dẫn đến những hành động bán nước tiếp diễn trong tương lai. Chúng ta, không những phải nỗ lực lấy lại những gì đã mất, mà còn phải ngăn chận những gì sẽ mất trong tương lai.  Một người, chúng ta sẽ không thành công. Một ngày, một tháng, một năm là quá ngắn để đạt được mục đích. Nhưng với nhiều công dân Việt Nam, bằng trách nhiệm, lương tâm và lòng yêu nước, bằng chiều dài cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ thành công trong việc tiếp nối sự nghiệp cứu nước và giữ nước của tiền nhân.

Trong sự ý thức về trách nhiệm của một công dân Việt Nam, trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, tôi quyết định sẽ tọa kháng ngay trước nhà của tôi khởi từ ngày 14 tháng 9 năm 2008 trở đi để phản đối hành động bán nước, dâng hiến Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc cách đây 50 năm. Lý do tôi phải chọn hình thức đấu tranh này là vì tôi đã từng nộp đơn xin phép nhà nước để được biểu tình, để được làm theo đúng pháp luật quy định của nhà nước, hầu không bị công an vô cớ đàn áp và vu khống như những lần tham dự biểu tình trước, nhưng đơn xin phép của tôi cững đã bị bác bỏ, và bản thân tôi lại bị hành hung.  Tôi khiếu tố và đơn khiếu tố ấy cững bị tòa từ chối không giải quyết.  Tôi không còn lựa chọn nào khác trừ phương thức đấu tranh tọa kháng ngay tại nhà tôi để thể hiện quyền bày tỏ thái độ của tôi, một quyền mà chính hiến pháp nhà nước trong điều khoản 69 cững đã ghi rõ.  Và lần này, nếu nhà nước đàn áp, sách nhiễu hay xử dụng bạo lực với tôi, hay thậm chí án tù với tôi, thì ít ra tôi cững đã thể hiện qua chính sự an nguy của tôi cho cả thế giới được biết sự thật của đất nước này là không hề có tự do ngôn luận, cho dù là ngay tại chính nhà mình sở hữu.

Tôi cũng tọa kháng để phản đối mọi hành động khiếp nhược của nhà nước này trước ngoại bang phương bắc nhưng lại hung hãn đàn áp mọi tiếng nói, mọi thái độ bày tỏ lòng yêu nước của công dân Việt Nam. Đây chỉ là một việc làm nhỏ bé mà cá nhân tôi có thể làm được trong lúc này. Nhưng dù là một hành động nhỏ bé, nhưng với tinh thần đất nước là của chung, tôi xin kính khẩn kêu gọi mọi tầng lớp công dân Việt Nam, quý bác, quý chú đã từng hy sinh cuộc đời của mình cho nền độc lập của đất nước, các anh chị và các bạn trẻ đang mong ước đất nước Việt Nam sẽ ngẩng cao đầu với cộng đồng nhân loại, hãy cùng với tôi bày tỏ thái độ và lòng yêu nước của mình ngay tại chính nhà của quý vị, bất cứ ngày nào khởi từ ngày 14 tháng 9 này trở đi, nếu như quý vị cững như chúng tôi bị ngăn cấm, không thể đến được nơi biểu tình ở Hà Nội vào 14/09 trước sứ quán Trung Quốc.

Mục đích duy nhất của hành động tọa kháng của tôi là bày tỏ lòng yêu nước và nhắc nhở cho chính tôi và đồng bào của tôi về mối nhục mất đất, mất biển và tôi mong mỏi được sự hỗ trợ và đồng thuận của nhiều người qua những hành động cụ thể. Nếu tôi bị bắt giam thì chắc chắn “tội” của tôi và đó là là tội duy nhất của tôi, là đã dám công khai bày tỏ lòng yêu nước của mình. Và nếu vì yêu nước mà bị giam cầm thì tôi rất sẵn sàng và hãnh diện đón nhận bản án tù ấy bất cứ lúc nào. Và nếu như tôi bị bắt giam trước khi tôi có cơ hội toạ kháng tại nhà như ước muốn, thì tôi sẽ tọa kháng phản đối trong nhà tù. Đối với tôi những khó khăn này rất là nhỏ bé so với những hy sinh của các bậc tiền nhân, của các vị cha chú đi trước tôi đã trải qua trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Kính mong,

Ngày 13 tháng 09 năm 2008

Công dân Phạm Thanh Nghiên
17 Phương Lưu 2 –  Phường Đông Hải –  Quận Hải An, Hải Phòng


Việt Tân lên tiếng về chiến dịch đàn áp trước ngày 14/9

13/09/2008

VIỆT NAM CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG

Ngày 13 tháng 9 năm 2008

Bản Lên Tiếng
về Chiến Dịch Đàn Áp Trước Ngày 14/9 của Nhà Cầm Quyền Hà Nội

Trong 5 ngày qua, nhà cầm quyền Hà Nội đã tiến hành chiến dịch bắt bớ và khủng bố tinh thần trên cả nước để bịt miệng những người muốn đưa ra ánh sáng một đại tội của lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).

Hàng loạt những tiếng nói can đảm như blogger Điếu Cày – Nguyễn Hoàng Hải, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, kỹ sư Phạm Văn Trội, nhà giáo Vũ Hùng, nhà thơ Trần Đức Thạch, ông Nguyễn Văn Túc, sinh viên Ngô Quỳnh, chị Phạm Thanh Nghiên và nhiều người khác đã bị xét nhà, bao vây, hăm dọa, giam giữ, và kết án. Tất cả chỉ vì những người yêu nước này muốn vạch rõ trước dân tộc ý nghĩa của ngày 14 tháng 9 năm 2008.

Đó là ngày đánh dấu đúng 50 năm cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại diện đảng và nhà nước CSVN, ký công hàm công nhận hải phận Trung Quốc bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Kể từ ngày đó đến nay, Bắc Kinh đã viện dẫn công hàm này để xâm chiếm và xây dựng căn cứ quân sự trên cả 2 quần đảo, chiếm quyền khai thác tài nguyên trong khu vực, và thẳng tay bắn giết ngư dân Việt mà họ bảo là vi phạm hải phận Trung Quốc.

Nhưng cũng kể từ ngày đó đến nay, thay vì thú nhận sai lầm và báo động với toàn dân về hiểm họa này, những người lãnh đạo đảng CSVN lại:

  • Tìm mọi cách dấu giếm bức công hàm này và trấn áp những ai muốn lên tiếng báo động.
  • Ra sức khỏa lấp các hành động hiếu chiến của Trung Quốc, thậm chí còn hăm dọa cả thân nhân những ngư dân bị hải quân Trung Quốc bắn giết.
  • Trừng phạt nặng nề những thanh niên, sinh viên biểu tình trước sứ quán Trung Quốc và ngăn cấm mọi hình thức phản đối của nhân dân Việt Nam trước những hành động gây hấn của Bắc Kinh.
  • Tiếp tục lừa gạt dân tộc với những luận điệu gian dối về mối tình nghĩa Việt Trung hữu nghị.
  • Dâng nhượng thêm nhiều phần đất, vùng biển và quyền khai thác cho Bắc Kinh qua các hiệp ước suốt từ năm 1999 mà các văn kiện và bản đồ ký kết vẫn còn dấu nhẹm cho đến nay.

Quá trình đó cho thấy việc sẵn sàng và chủ ý dâng nhượng lãnh thổ cho ngoại bang để nắm quyền cai trị dân tộc là truyền thống của nhiều đời lãnh đạo đảng CSVN, kể cả thế hệ lãnh đạo hiện nay.

Trước sự kiện và tình hình này, Đảng Việt Tân chia xẻ sâu xa và hết lòng ủng hộ những tiếng nói yêu nước đang can đảm báo nguy về hiểm họa này. Mọi đảng viên Đảng Việt Tân trong và ngoài nước nguyện chung vai cùng toàn thể dân tộc, quyết soi sáng sự thật về bức công hàm Phạm Văn Đồng và đưa vào sử sách đất nước. Các thế hệ Việt Nam tương lai phải biết về chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa và biết về bài học phản bội của những người lãnh đạo đảng CSVN.

Đảng Việt Tân kêu gọi các anh chị em đang phải phục vụ trong guồng máy chế độ:

  • Xin nhìn kỹ vào bản chất của những người đang cai trị đất nước chúng ta hôm nay. Khối lượng những bằng chứng không thể chối cãi và không còn có thể che đậy đã lộ ra quá nhiều và quá đủ trong 20 năm qua.
  • Hãy nghĩ đến một đất nước tương lai không còn độc tài nhưng đầy công lý, tình người, và tiến bộ cho mọi thế hệ con cháu chúng ta; và một chính quyền biết yêu quí tổ quốc thiêng liêng.
  • Hãy làm việc cụ thể đầu tiên cho đất nước, đó là tìm mọi cách trong khả năng và hoàn cảnh của mình bảo vệ các nhà dân chủ, bảo vệ những con người yêu nước chân thành đang bị chế độ càn quét.

Ngày 13 tháng 9 năm 2008
Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng

Mọi chi tiết xin liên lạc:

Đặng Thanh Chi : +1 (408) 228 4892
Hoàng Tứ Duy: +1 (202) 470-1678
http://www.viettan.org

Ðối Ðầu Bất Bạo Ðộng để tháo gỡ độc tài – Xây Dựng Xã Hội Dân Sự để đặt nền dân chủ –
Vận Ðộng Toàn Dân để canh tân đất nước


Giới Cựu Chiến Binh khởi động kiến nghị hủy bỏ công hàm Phạm Văn Đồng 1958

10/09/2008

KIẾN NGHỊ HỦY BỎ
CÔNG HÀM 14 THÁNG 9 NĂM 1958
CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG

Kính gửi:  Ông Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam
– Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
– Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
– Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Thưa các ông

Từ nhiều năm nay, Chính phủ ta đã khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhưng thực tế cho thấy phía chính quyền Trung Quốc đã không những không tôn trọng điều khẳng định của Chính phủ ta mà còn liên tục có những hành động xâm phạm chủ quyền của ta:

Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Tháng  5 năm 1988, Trung Quốc đã xâm chiếm nhiều đảo ở Trường Sa.

Tháng 11 năm 2007, Trung Quốc đã cho thiết lập huyện Tam Sa để trực tiếp quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lúc hai quần đảo này còn trong vòng tranh chấp giữa ta và chính quyền Trung Quốc.

Tháng 7 năm 2008, Trung Quốc đã cảnh báo và yêu cầu tập đoàn dầu khí Exxon Mobil của Hoa Kỳ rút khỏi hợp đồng khai thác mỏ dầu với chính phủ ta. Trước đó, vào tháng 6 năm 2007, nhà cầm quyền Trung Quốc cũng đã phản đối và yêu cầu ngưng hợp đồng giữa Chính phủ ta với tập đoàn dầu khí BP của Anh nhằm nghiên cứu dầu khí gần khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khiến cho tập đoàn BP đã phải tạm ngưng kế hoạch xúc tiến.

Mới đây, trong khi chuẩn bị Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008, nhà cầm quyền Trung Quốc đã vẽ lại bản đồ Trung Quốc trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta. Giữa tháng 8 năm 2008, hải quân Trung Quốc trang bị dàn hỏa tiễn tối tân xâm nhập vào khu vực lãnh hải của Việt Nam.

Những hành động nói trên cho thấy là nhà cầm quyền Trung Quốc coi thường công luận và tiếp tục xâm phạm hải đảo của Việt Nam, trong khi Chính phủ ta chỉ lên tiếng phản đối một cách quá dè dặt. Một trong những văn bản bị Trung Quốc lợi dụng để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa là Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 xác nhận rằng: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc”. ( Bản Tuyên bố của Trung Quốc khẳng định hải phận 12 hải lý của họ, trong đó bao gồm chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ). Sau này, chính phủ ta có giải thích về lý do ra đời của Công hàm vào năm 1958 là hoàn toàn mang tính ngoại giao không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc không đếm xỉa gì đến giải thích này.

Nhiều thế hệ Việt Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ giang sơn tổ quốc. Chúng ta trong thế hệ này không những tiếp tục bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải của cha ông để lại mà còn phải can đảm sửa sai những lầm lẫn của quá khứ để không tiếp tục trao gánh nặng lại cho thế hệ tương lai. Những sai lầm của ta xuất phát từ niềm tin trong sáng vào họ khi cùng họ đấu tranh cho một ý thức hệ mà ta tưởng là lý tưởng. Nay chính họ đã phản bội lại tất cả và ngày càng biểu lộ dã tâm xâm lăng đất nước ta, bởi vậy, ta không thể không có thái độ dứt khóat và hành động mạnh mẽ để đáp trả đích đáng dã tâm của đối phương.

Ngày 14 tháng 9 năm nay là vừa tròn nửa thế kỷ đã trôi qua đối với bản công hàm do cá nhân thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký mà không thông qua Quốc hội, không trưng cầu ý kiến toàn dân. Bởi vậy, nhân dịp này chúng tôi khẩn thiết đề nghị Nhà nước ta chính thức tuyên bố hủy bỏ Công hàm mà cá nhân thủ tường Phạm văn Đồng đã ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 gửi cá nhân thủ tướng Chu Ân Lai.

Chúng tôi hoàn toàn tin rằng đây là sở nguyện của toàn dân Việt Nam và làm được như vậy mới có thể chuộc lỗi cùng Tổ quốc và Nhân dân, từ đó sẽ cứu vãn được lòng tin.

Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 2008

Những người ký tên kiến nghị :
(Đến ngày 4/9/2008)

Cựu chiến binh ( theo thứ tự tên gọi)
1. Phan Anh – thương binh, giáo viên trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
2. Phạm Quế Dương – đại tá QĐND VN, 37 Lý Nam Đế, Hà Nội
3. Lê Điệp – CCB, 17 Hàng Quạt, Hà Nội
4. Lê hữu Điệp – CCB, 40, phường Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Ha Nội
5. Lý Anh Kim – CCB, 87, Phường Phúc Xá, Ba Đình, Ha Nội
6. Trần Anh Kim – Trung tá QĐNDVN, biên tập viên tập san Tổ Quốc
7. Nguyễn Trọng Lâm – CCB, 46 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
8. Nguyễn văn Miến – đại tá QĐNDVN, 30 đường Nguyễn Cao, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
9. Nguyễn Kim Nhàn – CCB, số nhà 1413, khu 34, thành phố Bắc Giang
10. Nguyễn Thanh Nhàn- thương binh chống Mỹ, gv trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
11. Phạm văn Phiếu – cụu quyết tử quân Trung đoàn Thủ đô, 8/28 Hương viên, Hai Bà Trưng, Hà Nội
12. Trịnh Khả Phức – Cựu chiến binh chống Pháp – số 6, nhà P9, khu lắp ghép Trương Định, Hanoi
13. Vũ Cao Quận – CCB, Hải Phòng, biên tập viên tập san Tổ Quốc
14. Lê Anh Sơn – CCB, 17 Nguyễn Du, Hà Nội
15. Đỗ Việt Sơn – lão thành cách mạng, 4/21. Nguyễn Cao, Hà Nội
16. Trần Đức Thạch – CCB, Hội viên Hội Văn Nghệ Nghệ An
17. Nguyễn Thế – CCB, Thanh Xuân, Hà Nội
18. Đỗ văn Thỉnh – CCB, Văn Phú, Phú La, Hà Đông
19. Chu văn Thưởng – CCB, 18 Ngõ Quỳnh, Bạch Mai, Hà Nội
20. Cao Bá Trữ – thiếu tá QĐNDVN, Đống Đa, Hà Nội

Nhân Dân Việt Nam (theo thứ tự tên gọi)
1. Tiêu Dao Bảo Cự – nhà văn, Thành phố Đà Lạt
2. Kim Văn Duy – sinh viên ĐH Kiến Trúc, tp HCM
3. Ninh Thị Định – 3/20/215 Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng.
4. Nguyễn Thanh Giang – tiến sỹ Địa Vật lý, số 6, tập thể Địa Vật lý Máu bay, Hà Nội
5. Vi Đức Hồi – Cựu hiệu trưởng Trường Đảng Hữu Lũng, Lạng Sơn khu An Thịnh, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
6. Vũ Hùng – cựu giáo viên vật lý trường PTCS Bích Hòa, Hà Tây
7. Vũ Mạnh Hùng – Cán bộ quản lý khu nội trú Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thương mại, Hà Nội
8. Trần Lâm – luật sư, Thành phố Hải Phòng
9. Mai Thái Lĩnh – cựu Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Đà Lạt, Lâm Đồng
10. Nguyễn Thượng Long – nhà giáo, Văn La, Văn Khê, Hà Đông
11. Nguyễn thị Lợi – ( thân mẫu cô Phạm Thanh Nghiên)
12. Nguyễn Tiến Nam, tổ 24, phường Yến Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
13. Võ văn Nghệ – 277A, đường Nguyễn Trãi, phường Tây Sơn, tp Thanh Hóa
14. Nguyễn Xuân Nghĩa – nhà văn, số nhà 828, đường Trường Chinh, Kiến An, Hải Phòng
15. Phạm Thanh Nghiên, số nhà 17, Phương Lưu 2, phường Đông Hải, quận Hải An, HP
16. Hà Sỹ Phu – tiến sỹ sinh vật học, 4E Bùi thị Xuân, thành phố Đà Lạt
17. Lê Minh Phúc – Cựu Tổng giám đốc Liên hiệp Địa Vật lý Máy bay Việt Nam
18. Phạm Thị Phượng – Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng.
19. Bùi Minh Quốc – nhà văn, 3 Nguyễn Thượng Hiền, Đà Lạt
20. Ngô Quỳnh – Hiệp Hòa, Bắc Giang
21. Nguyễn văn Tính (tức Hoàng Hải Minh) Quán Chữ, Hải Phòng, mobile 0984 414479
22. Lưu thị Thu – 282, Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng
23. Trần Khải Thanh Thủy – nhà văn, biên tập viên tập san Tổ Quốc
24. Vũ như Ý – nguyên chuyên viên cao cấp Bộ Giao thông vận tải, phường Vĩnh Tuy, Hà Nội
25. Phạm Thanh Yến, lô A1, Thái Phiên, Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng